Mark Levinson
Lượt xem: 17570

Trong kho : Còn hàng

Bảo hành : 12 tháng

No.53 là bộ ampli rất đặc biệt. Không phải bởi thương hiệu Mark Levinson, không phải bởi nó có giá 50.000USD một cặp, và cũng không phải bởi nó đã làm chúng tôi ngạc nhiên trong quá trình nghe thử. Nó đặc biệt bởi ngay cả các đối thủ cạnh tranh cũng phải thừa nhận rằng No.53 thực sự có chất lượng âm thanh xuất sắc vượt trội...

Read More

No 53

Dẫn đầu thế giới hi-end

No.53 là bộ ampli rất đặc biệt. Không phải bởi thương hiệu Mark Levinson, không phải bởi nó có giá 50.000USD một cặp, và cũng không phải bởi nó đã làm chúng tôi ngạc nhiên trong quá trình nghe thử. Nó đặc biệt bởi ngay cả các đối thủ cạnh tranh cũng phải thừa nhận rằng Levinson No.53 thực sự có chất lượng âm thanh xuất sắc vượt trội... 

Các bộ ampli tham chiếu huyền thoại của Mark Levinson như No.33 và No.33H vốn có chất lượng âm thanh đẳng cấp trong thế giới hi-end, nhưng chúng có kích thước to lớn và nặng nề. Với thiết kế theo hình tháp, sản phầm mới Levinson No.53 thoạt trông không khác nhiều so với bộ No.33, có điều nó nhỏ gọn hơn, và ở bên trong vẻ ngoài quen thuộc đó là cả một sự khác biệt rất căn bản. Nhiều người hẳn sẽ thấy rất thú vị khi được biết rằng No.53 là một ampli hybrid digital tức là một ampli lai giữa analog và digital. Nó phối hợp được cả sự ngọt ngào của class A trong âm thanh analog với độ trong trẻo cùng sức mạnh phi thường của các ampli digital đẳng cấp cao trên thị trường ngày nay.

 No 53

Không giống như đại đa số các nhà sản xuất ampli digital khác, Mark Levinson không sử dụng công nghệ ICE của Bang&Olufsen (Đan Mạch). Thay vào đó là công nghệ độc quyền do Mark Levinson phát triển gọi là Interleaved Power Technology (IPT), với khả năng phối hợp tất cả những ưu điểm của cả hai thế giới ampli analog và digital. Công nghệ IPT đã thành công hoàn hảo ở No.53 và hứa hẹn sẽ trở nên phổ biến trong hầu hết các sản phẩm Mark Levinson trong vài năm tới đây.

Sự ra đời bất ngờ từ một thí nghiệm

Các sản phẩm của Mark Levinson chưa bao giờ chịu ảnh hưởng của các trào lưu trên thị trường. Mọi thiết bị mà hãng cho ra đời đều mang những nét mới riêng, độc đáo về công nghệ, và phải trải qua những quá trình thiết kế và đánh giá thử nghiệm lâu dài. Ampli No.53 bắt nguồn từ một mẫu ampli digital, được các kỹ sư của Mark Levinson thiết kế nhằm so sánh và đánh giá tiềm năng của ampli switching so với các ampli tuyến tính của Mark Levinson và một số hãng khác (ampli tuyến tính hay còn gọi là ampli analog thông thường hiện chiếm đến 95% số lượng bán trên thị trường).

Chính trong quá trình thử nghiệm này, các chuyên gia của Mark Levinson đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc ampli switching mẫu này không hề bị loại bỏ sớm như họ nghĩ. Ngược lại, thật bất ngờ, nó lại vươn lên giành chiến thắng với một chất âm cực kỳ nhanh, mạnh và trong trẻo hiếm thấy. Việc một phiên bản thử nghiệm lại có thể vượt qua được các ampli tuyến tính cao cấp nhất, bao gồm cả các sản phẩm của chính Mark Levinson, đã khiến hãng phải thay đổi hoàn toàn quan điểm về ampli switching. Nhận thấy được khả năng tiềm ẩn của model này, Mark Levinson đã bắt tay vào nghiên cứu, hoàn thiện và cho ra đời model ampli công suất No.53. 

Đặc tính kĩ thuật độc đáo

Mọi thiết kế ampli công suất dù là analog hay digital đều có ưu nhược điểm của nó, và ampli switching cũng vậy. Điểm mạnh của ampli swiching là công suất mạnh hơn, kích thước nhỏ gọn hơn và ít tỏa nhiệt hơn các ampli tuyến tính nhiều lần. Nếu đem so sánh, phiên bản Mark Levinson No.33 trước đây có công suất 300W/8 ohm, với kích thước 78.7 x 35.6 x 78.7cm và nặng xấp xỉ 200kg. Trong khi đó No.53 có công suất tới 500W, kích thước 53.3 x 22.9 x 53.3cm và nặng chỉ có 61.2kg. Mạnh hơn gần gấp đôi, nhỏ hơn rõ rệt và nhẹ hơn tới 140kg.

 No 53

Model No.53 có khả năng cung cấp đủ công suất đáp ứng được nhu cầu của mọi đôi loa trên thị trường hiện nay. Ấn tượng hơn, tuy thân máy luôn âm ấm khi hoạt động, nhưng lượng nhiệt tỏa ra từ No.53 sẽ luôn ổn định cho dù bạn dùng nó bao lâu đi chăng nữa.

Những điểm mạnh của ampli digital thì ai cũng thấy, nhưng vì sao dòng ampli này vẫn chưa phổ biến trên thị trường? Bởi vì chúng cũng tồn tại những nhược điểm, trong đó có 2 điểm yếu rất khó giải quyết đó là “Tạp âm chuyển mạch” và “Dải tần trắng”.

Do nguyên lý hoạt động của tầng công suất digital là liên tục bật và tắt bộ sò công suất với tốc độ cực nhanh để cho tương ứng với tín hiệu đầu vào, nên hiện tượng tạp âm chuyển mạch (nhiễu chuyển mạch - switching noise) và dải tần trắng (dead band) sẽ xuất hiện, gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng âm thanh. 

Giải quyết switching noise

Trong hầu hết các ampli switching, người ta dùng một bộ lọc tần số cao để loại bỏ hiện tượng tạp âm chuyển mạch này. Nhưng mặt khác, chính bộ lọc lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự đồng phase của tín hiệu âm thanh, tới dải tần và âm hình. 

Để vượt qua thử thách này, các kĩ sư của Mark Levinson đã phát minh ra công nghệ Interleaved Power Technology (IPT), giúp cải thiện tần số switching của No.53 lên tới mức 2MHz và rất ổn định. Công nghệ này cho phép đẩy tạp âm chuyển mạch và các hiệu ứng xấu mà nó tác động vào âm thanh lên tới mức cao hơn rất nhiều so với dải tần nghe được của con người (thực tế, hầu hết các thiết bị đo kiểm audio testing còn không đo được tới mức này). Không chỉ vậy, nó còn cho phép loại bỏ nhiễu chuyển mạch bằng các bộ lọc “mềm” hơn, hầu như không có ảnh hưởng tiêu cực gì tới dải âm nghe được. Kết quả là dải tần của No.53 hầu như phẳng tuyệt đối, chỉ hơi suy giảm một vài dB ở mức 100kHz. Thật ấn tượng, không chỉ đối với ampli switching nói riêng, mà với tất cả mọi ampli công suất nói chung. 

Loại trừ dead band

Một thử thách khác của loại ampli switching là “Dải tần trắng” (dead band). Bản chất của “Dải tần trắng” là những “khoảng trống” trong tín hiệu đầu ra, chúng sinh ra khi sò công suất kiểm soát cả hai nửa dương và âm của tín hiệu đều ở trạng thái tắt. Hiện tượng này xảy ra mỗi khi sóng âm đi từ biên độ dương sang biên độ âm (hoặc ngược lại), trung bình khoảng 40 ngàn lần mỗi giây tại 20kHz. Bởi ngay cả các con sò bán dẫn dùng làm linh kiện chuyển mạch tốt nhất hiện nay cũng không thể tắt bật ngay lập tức, sẽ luôn có độ trễ và tạo ra những khoảng trống trong tín hiệu xuất hiện giữa mỗi nửa chu kì của sóng âm. Độ trễ càng lâu, khoảng trống đó càng lớn thì ảnh hưởng tới chất lượng âm thanh đầu ra càng trầm trọng, nhưng ngay cả những khoảng trống nhỏ nhất cũng đủ để khiến người nghe cảm thấy có cái gì đó không ổn trong âm thanh.

Trên lý thuyết, có thể phần nào giảm bớt dead band bằng cách giữ hai cặp sò chuyển mạch công suất ở trạng thái tắt càng ngắn càng tốt. Nhưng điều này lại tăng khả năng cả hai cặp đồng thời ở trạng thái bật, tăng dòng tiêu thụ điện lên gấp đôi, và dễ dàng gây hỏng hóc cho hệ thống. Nhiều kĩ sư của các hãng khác không còn cách nào khác phải chọn con đường thỏa hiệp, chấp nhận hy sinh chất lượng âm thanh để có độ ổn định của thiết bị.

Mark Levinson không chấp nhận điều này. Họ nghiên cứu và đưa ra một công nghệ độc quyền, cho phép cả hai cặp sò chuyển mạch có thể ở trạng thái bật cùng lúc trong một thời gian ngắn. Nhờ vậy, dead band bị loại trừ hoàn toàn mà không hề làm ảnh hưởng tới tuổi thọ của No53. Công nghệ xử lý “Dải tần trắng” hoàn hảo trong ampli No.53 hiện vẫn còn là một bí mật mà Mark Levinson chưa công bố chi tiết.

Tối ưu hóa thiết kế

Mục tiêu hàng đầu của mọi thiết bị Mark Levinson là tái tạo lại âm thanh trung thực tới mức tối đa có thể. Với các ampli công suất, thử thách chính là việc khuếch đại tín hiệu âm thanh mà không gây méo, và khả năng tải mọi loại loa với mức trở kháng khác nhau ở mọi mức volume và sự tinh tế đạt chuẩn âm thanh Reference.

Chassis của No.53 được thiết kế dạng cột đứng, và bên trong thân máy là bốn khu vực riêng biệt được cô lập để tránh ảnh hưởng lẫn nhau. Bộ nguồn của máy – một biến thế vòng xuyến ít tạp âm công suất cực lớn: 2.8kVA với bốn tụ lọc 47.000µF – đều được đặt ở dưới cùng, đế tránh ảnh hưởng từ trường tới các linh kiện xung quanh. Ở giữa thân máy là bốn module swiching, được bố trí đối xứng cân bằng với nhau để cách ly tối đa. Phần trên cùng của thân máy là mạch điều khiển, với bộ nguồn ổn áp riêng được che chắn kĩ để không ảnh hưởng tới phần còn lại của ampli.

Tám cuộn cảm lọc khá lớn – mỗi module ampli có hai cuộn cảm – tạo nên bốn ampli công suất riêng biệt, giúp đem lại mức công suất cực cao, độ động tuyệt vời và độ trong trẻo đáng kinh ngạc của No.53. Tần số switching lên tới 2MHz, đem lại chất lượng âm thanh khác biệt hoàn toàn so với tất cả các ampli switching từ trước tới nay.

No 53

Và sẵn sàng cho đôi tai thưởng thức

Sau khi loại bỏ những nhược điểm truyền thống của ampli switching, No.53 được Mark Levinson đem ra nghe thử bởi những audiophile khó tính nhất. No.53 cũng được phối hợp với nhiều cặp loa khác nhau, nhiều bộ dây loa khác nhau, nghe thử nhiều thể loại nhạc khác nhau trong những căn phòng khác nhau. No.53 được đem so sánh với các ampli công suất khác của Mark Levinson và các ampli hi-end cao cấp nhất tương đương trên thị trường. Tất cả đều đem lại sự mãn nguyện hoàn toàn cho đôi tai, và chỉ khi đó, No.53 mới chính thức được sản xuất hàng loạt. Đó chính là sự ra đời của một thế giới Reference hoàn toàn mới, nơi bạn có thể tận hưởng một chất âm sâu sắc và chi tiết hơn bao giờ hết. 

Ưu điểm

Có thể nói Mark Levinson No.53 chính là giấc mơ của mọi audiophile. Với No.53, bạn vừa có được âm thanh mạnh mẽ và trong sạch của ampli digital, đồng thời cũng có được chất âm quyến rũ và chi tiết của các thiết kế class A bán dẫn. Chưa có sản phẩm hi-end nào làm được điều này tốt như No.53.

No.53 nhỏ gọn hơn nhưng lại hoạt động ổn định hơn No.33, và có khả năng thay thế cho mọi ampli No.33 trên toàn thế giới.

Nhược điểm

Tuy đã nhỏ hơn No.33, nhưng do thiết kế dạng tháp nên No.53 vẫn chỉ thích hợp bố trí trong những không gian nhất định. Và không phải ai cũng muốn có một đôi ampli cồng kềnh trong nhà.

Đánh giá

Nhiều người cho rằng, một đầu Blu-ray giá 400USD đã được coi là đắt. Không biết họ sẽ nghĩ gì về No.53 với giá 50.000USD một cặp. Tuy nhiên, có một sự thật không ai phủ nhận được, đó là chúng có chất lượng âm thanh tuyệt vời không thể tin nổi. Cho dù có giá tương đương một xe hơi cao cấp, nhưng đây là một ampli cực kỳ đáng tiền, là sản phẩm công nghệ dẫn đầu trong thế giới hi-end hiện nay và đặt ra chuẩn mực mới nhất cho chất lượng âm thanh trung thực.

 

SPECIFICATIONS

Inputs One balanced XLR input; One unbalanced RCA input
Speaker Connections Two pairs of "Hurricane" loudspeaker output binding posts with banana-plug sockets (banana-plug socket not available for some models)
Communication and Control Two Link2 ports (one input and one output); One Ethernet port; One 3.5mm mono (tip/sleeve) mini plug trigger input, 3-12Vdc; One 3.5mm mono (tip/sleeve) mini plug trigger output, 3-12Vdc; 3-Pin IEC standard power connector
Rated Output Power into 8 ohms 500W
Rated Output Power into 4 ohms 1000W
Frequency Response Within ±0.1dB from 10Hz to 20kHz
Signal-to-Noise Ratio -85dB, reference level: 2.83Vrms (1W @ 8Ω)
Input Sensitivity 2.89V for maximum rated output power
Gain 26.8dB
Input Impedance 100 kΩ (balanced); 50 kΩ (unbalanced)
Power Requirements 100V~, 120V~, 230V~, 640W, factory-set for destination country
Height 20.87 in (530mm)
Width 8.42 in (214mm)
Depth 20.4 in (518mm)
Net weight 135 lb (61.3kg)
 Shipping weight 165 lb (75kg)

 

Video ở đây